Trên thế giới có rất ít những chiếc đồng hồ có khả năng truyền cảm hứng như Omega Speedmaster. Chiếc đồng hồ đầu tiên được đeo trên mặt trăng đã trở thành biểu tượng bền vững cho sự khéo léo và kỹ năng đã mang chúng ta tiến vào không gian. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Speedmaster, chúng ta hãy cùng nhìn lại đam mê khám phá không gian với Đại sứ thương hiệu, George Clooney trong những ngày đầu của chương trình Apollo và suy nghĩ về lý do tại sao Speedmaster đã có thể đi đến nơi mà nó đã tới.

 

GC2017_1

George Clooney – Đại sứ thương hiệu OMEGA

 

Trong vai trò là một diễn viên, anh ấy đã nhiều lần sắm vai phi hành gia, và rất ít người biết được tình yêu của George Clooney dành cho không gian. Clooney lớn lên trong thập kỷ 60 và chỉ mới 8 tuổi khi Neil Armstrong và Buzz Aldrin lần đầu đặt chân lên mặt trăng. Như hầu hết những đứa trẻ ở thế hệ mình, các phi hành gia luôn là những người anh hùng và đã đi vào không gian trong giấc mơ của mình.

 

Nghĩ lại thời điểm đó, Clooney cho biết, “Đó là khoảng thời gian thú vị nhất đối với một đứa trẻ. Chúng tôi biết tất cả tên của phi hành gia. Thậm chí chúng tôi ăn các thực phẩm mà các phi hành gia ăn…Trong một kỳ nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã lái xe qua quê nhà của Neil Armstrong, đơn giản chỉ bởi vì chúng tôi muốn lái xe qua quê nhà của ông ấy. Các phi hành gia là một điều gì đó thật là lớn đối với chúng tôi.

 

Năm 1961, Tổng thống Mỹ John F.Kennedy đã đặt ra một thách thức táo bạo cho người Mỹ. Ông tuyên bố, “Tôi tin rằng quốc gia này cam kết thực hiện cho được một mục tiêu trước khi thập kỷ này kết thúc, chính là đưa con người lên mặt trăng và trở về trái đất một cách an toàn.”

 

Theo Clooney, thử thách này hầu như là bất khả thi vào thời điểm đó, nhưng chính điều đó đã tạo nên sự lạc quan mới được phản ánh trong tất cả mọi thứ xung quanh anh.

 

“Chỉ trong vòng 60 năm, chúng tôi đã đi từ việc phát minh ra những chiếc xe hơi đến việc [nói về] việc đưa con người lên mặt trăng., Clooney cho hay, “Điều đó giống như đỉnh điểm trong sự lạc quan, đỉnh điểm trong suy nghĩ tiến về phía trước. Điều này làm cho chúng tôi cảm thấy chúng tôi có thể làm tất cả mọi thứ.”

 

Và khi Apollo 11 hạ cánh lên mặt trăng vào ngày 20 tháng 7 năm 1969 và thử thách của Kenedy đã được trả lời, cậu bé Clooney ngước nhìn lên từ sân sau nhà mình cùng với cha, anh ấy cảm nhận có một sự liên kết đặc biệt với những người anh hùng của mình khi họ đặt bước chân đầu tiên ở một thế giới mới. Giống như những phi hành gia đang nhìn, cha của Clooney vẫn đang đeo một chiếc Omega.

 

Apollo 11 mission_21 July 1969 - Astronaut walking

Phi hành gia đi bọ ngoài không gian trong nhiệm vụ Apollo 11 vào ngày 21/7/1969

 

Trong thực tế, Clooney vẫn đeo chiếc đồng hồ ấy. Khi Clooney cha biết con mình sẽ làm việc với Omega, ông ấy đã tăng cho Clooney chiếc đồng hồ như một món quà.

 

“Ông ấy đã đem nó xuống từ tầng áp mái, sau 20 năm để nó trên đó,” Clooney cho hay, “và ông ấy lên dây và nó bắt đầu chạy trở lại. Đó thật là khoảnh khắc đặc biệt. Tôi đã lớn lên cùng với chiếc đồng hồ này trên tay ông ấy.”

 

Theo Clooney, những đứa trẻ đều biết rằng các phi hành gia đeo đồng hồ Omega. Anh ấy nhớ lại “ Omega hoàn toàn là một phần của chương trình không gian khi tôi lớn lên. Omega là thời gian chính xác… và điều này cũng giống như các chương trình không gian là một sự tiến triển tự nhiên.”

 

Những gì mà Clooney không biết sau đó, tuy nhiên đó là Speedmaster được hình dung ban đầu cho một mục đích hoàn toàn khác. Giống như gợi ý từ tên gọi, nó được chế tạo cho tốc độ, và khi lần đầu được giới thiệu cách đây 60 năm, nó được dự định không phải dành cho các tàu tên lửa, mà dành cho những chiếc xe đua.

 

Sau khi giới thiệu, Speedmaster đã ngay lập tức tạo nên một cú hích với những người lái xe chuyên nghiệp.Vẻ ngoài gồ ghề của nó cho thấy nó có thể chịu được những chấn động mạnh và những cú sốc trong khi vẫn giữ cho thời gian hoàn hảo. Và nhờ vào thang đo tốc độ trên niềng, những người lái xe có thể dễ dàng theo dõi vòng đua của họ dễ dàng hơn bao giờ hết. Đó là chiếc đồng hồ đầu tiên có chức năng này, và vào thời điểm đó, đó là cuộc cách mạng trong thiết kế, độ bền và chức năng của đồng hồ đeo tay. Cuối cùng, có hai đặc trưng làm cho Speedmaster rất thích hợp cho các sứ mệnh không gian, và dẫn nó đến vị trí trên cổ tay của tất cả phi hành gia trong chương trình Apollo kể từ năm 1965 trở đi.

 

Gemini 4 mission_June 1965_1

Nhiệm vụ Gemini 4_Tháng 6/1965

 

Đó là vào năm 1964 khi NASA bắt đầu tìm kiếm một chiếc đồng hồ chronograph để sử dụng cho các nhiệm vụ. Họ chọn một số đồng hồ từ nhiều thương hiệu khác nhau và đặt chúng vào một loạt các cuộc kiểm tra khác nhau đã được sử dụng trước đó cho những phần cứng được dành cho không gian. Chỉ duy nhất một chiếc đồng hồ sống sót sau những nhiệt độ khắc nghiệt, độ rung, những cú sốc và tiến trình ép chân không không khoan nhượng – đó là Omega Speedmaster.

 

Ngày nay, sau sáu thập kỷ, Speedmaster vẫn đủ tiêu chuẩn cho tất cả nhiệm vụ không gian và là dụng cụ bắt buộc trên Trạm Không Gian Quốc Tế. Trong di sản thiết kế của bản gốc, Moonwatch hiện tại về cơ bản giống như chiếc Omega trong khoảng thời gian trước khi lên không gian.

 

Đối với Clooney, điều này làm cho Speedmaster cổ điển thực sự giống như một loại rượu lâu năm. Anh ấy giải thích như thế này, “Một điều gì đó cổ điển, và khi chúng cổ điển, bạn sẽ luôn muốn chúng. Bạn sẽ thực sự khó chịu nếu chúng thay đổi. Chúng ta muốn công nghệ hiện đại – giống như điện thoại di động, nhưng phải có một cái gì đó cổ điển, và rằng nếu điều đó thay đổi, nó sẽ làm trái tim của bạn tan vỡ.”

 

Bên trong, calibre vẫn chưa có gì thay đổi và vẫn được sản xuất cho Moonwatch như nó vẫn vậy. Và phải mất hơn 14 tháng để chuẩn bị tất cả bộ phận cấu thành riêng biệt trước khi lắp ráp, và mất hơn 80 giờ làm việc thủ công cần thiết để tạo nên nền cơ bản. Giống như khi lần đầu tiên nó được giới thiệu, bàn tay con người đã là một phần tất yếu của quá trình chế tạo.

 

Thật là mỉa mai khi nói rằng Omega Speedmaster không cần thay đổi, suy xét đến những chương trình không gian của NASA có thể được ghi nhận bởi những cải tiến kỹ thuật từ viễn thông di động để nhắn tin SMS, và cho tới các tấm pin mặt trời để lọc nước. Và như Clooney nói, Speedmaster có thể là định nghĩa thực sự của sự cổ điển: một thiết kế không bao giờ được thay đổi.

 

Apollo 17_13 Dec. 1972 - Gene Cernan

Phi hành gia Gene Cernan trong nhiệm vụ Apollo 17 vào 13/12/1972

 

Bằng chứng nữa về chất lượng lâu dài của thiết kế của Speedmaster có thể được tìm thấy không hề ở đâu xa, như một công cụ điều hướng cho các nhà thám hiểm trên mặt đất. Năm 1968, Ralph Plaisted sử dụng Speedmaster và dụng cụ đo cự giác của mình để xác định chính xác vị trí địa lý của Bắc Cực lần đầu tiên. Tương tự như vậy vào năm 1985, nhà thám hiểm Wong How Man đã sử dụng chiếc Speedmaster của mình để khám phá và lập bản đồ những thượng nguồn khó nắm bắt của song Dương Tử.

 

Khi được hỏi về di sản của Speedmaster và chương trình không gian mà nó là một phần, Clooney đã trả lời, [Họ là những biểu tượng]… của thời đại mà thế giới chúng ta mong đợi những thử thách. Khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể làm tốt hơn, và khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể vươn đến những vì sao và thực sự đã làm được. Ở đây không có câu hỏi, mà chúng ta đã tốt nhất và can đảm nhất, và các phi hành gia đã dẫn đầu.”

 

Nhìn lại khoảng thời gian màu mỡ của khám phá và thăm dò, rõ rang là thử thách của Kenedy là cần thiết cho những thành tựu sau này. Đối với Clooney, bây giờ là thời khắc chúng ta cần những thách thức lớn hơn để dẫn dắt chúng ta vào giai đoạn mới của sự lạc quan và tiến bộ kỹ thuật.

 

“Tôi không lo lắng về việc nó sẽ không xảy ra lần nữa, và “Tôi chỉ hy vọng lần tới nó sẽ hiệu quả và thú vị như đã từng.”

 

Trong khi không thể biết được giới hạn nào chúng ta sẽ vượt qua tiếp theo, chúng ta có thể chắc chắn rằng, như Clooney đã chia sẻ  rằng chúng ta sẽ tiếp tục vươn đến những vì sao. Và nếu có một điều mà chúng ta nhận được từ kỷ niệm 60 năm Omega Speedmaster, thì đó sẽ là những công cụ thích hợp để đạt được bất kỳ thách thức có thể nào.

 

Omega tự hào đã đóng một vài trò của một trong những thành tựu vĩ đại nhất của thế kỷ 20 – đặt chân lên mặt trăng – và trông đợi vào những thành tựu to lớn mà nhân loại sẽ thực hiện trong 60 năm tới và xa hơn nữa.